Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2016

THƯỜNG DÂN

THƯỜNG DÂN
                               Nguyễn Long


Đông thì chật, ít thì thưa
Chẳng bao giờ thấy dư thừa thường dân
Quanh năm chân đất đầu trần
Tác tao sau những vũ vần bão giông.

Khi làm cây mác cây chông
khi thành biển cả khi không là gì
Thấp cao đâu có làm chi
Cỏ ngàn năm vẫn xanh rì cỏ thôi.

Ăn của đất, uống của trời
Dốc lòng cởi dạ cho người mình tin
Ồn ào mà vẫn lặng im
Mặc ai mua bán nổi chìm thiệt hơn


Chỉ mong ấm áo no cơm
Chắt chiu dành dụm thảo thơm ngọt lành.
Hòa vào trời đất mà xanh
Vô tư mấy kiếp mới thành thường dân…




Tre Việt Nam
Thơ: Nguyễn Duy

Tre xanh
Xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ, nên thành tre ơi
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù cát sỏi đá vôi bạc màu
Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chất dồn lâu hoá nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre kia không ngại khuất mình bóng râm
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay vin tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre chẳng ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người
Cho dù thân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho con
Loài tre đâu chịu mọc cong
Mới lên đã thẳng như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho măng
Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng, thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu
Mai sau,
mai sau,
mai sau…
Đất xanh, tre mãi xanh màu tre xanh!

C©y tre

Tôn Nhật Quang

Tác giả: Thép mới

Cây tre là người bạn thân của nông thôn Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam.
Nước Việt Namxanh muôn vàn cây lá khác nhau
Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là cây tre nứa
Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi… đâu đâu cũng có nứa tre làm bạn
Tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một mầm non mọc thẳng
Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt
Dáng tre vươn mộc mạc, mầu tre tươi nhũn nhặn
Rồi tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc
Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người
Nhà thơ có lần ca ngợi: Bóng tre trùm mát rượi
Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn
Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái chùa cổ kính
Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hóa lâu đời
Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang
Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp
Tre, nứa, mai, vầu giúp người trăm công nghìn việc khác nhau
Tre là cánh tay của người nông dân
Cánh đồng ta năm đôi ba vụ Tre với người vất vả quanh năm
Tre với người như thế đã mấy nghìn năm
Một thế kỷ “văn minh” “khai hóa” của thực dân cũng không làm được một tấc sắt
Tre vẫn còn phải vất vả mãi với người
Cối xay tre, nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc
Trong mỗi gia đình Việt Nam, tre là người nhà, tre khăng khít với đời sống hàng ngày
Dang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình quê cái thuở ban đầu thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa:
Lạt này gói bánh chưng xanh Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng…
Tre còn là nguồn vui duy nhất của tuổi thơ
Các em bé còn có đồ chơi gì nữa ngoài mấy que chuyền đánh chắt bằng tre
Tuổi già hút thuốc làm vui
Với chiếc điếu cày tre là khoan khoái
Nhớ lại vụ mùa trước, nghĩ đến những mùa sau, hay nghĩ đến một ngày mai sẽ khác…
Suốt một đời người, từ thuở lọt lòng trong chiếc nôi tre, đến khi nhắm mắt xuôi tay, nằm trên giường tre, tre với mình, sống có nhau, chết có nhau, chung thủy
Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất
Người xưa có câu: “Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”
Tre là thẳng thắn, bất khuất!
Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến đấu của ta
Tre vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh giặc
Buổi đầu, không một tấc sắt trong tay, tre là tất cả, tre là vũ khí
Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng lên Thành đồng Tổ quốc!
Và sông Hồng bất khuất có cái chông tre
Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù
Tre xung phong vào xe tăng, đại bác
Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín
Tre hy sinh để bảo vệ con người
Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu
Tám, chín năm trường kỳ kháng chiến giải phóng, ta đã trải những ngày cơm thiếu gạo khan
Có anh bộ đội nào quên được vị măng đắng, măng nứa
Trong rừng sâu, còn đốt nứa lấy than ăn muối
Tre nứa thương anh bộ đội, tre nứa lại nuôi anh
Tre yêu anh bộ đội, vì anh bộ đội chính là người nông dân mặc áo lính
Khói lửa xông pha, tình ta càng thêm keo sơn gắn bó
Ngày xưa, về đời vua Hùng Vương, có người anh hùng cứu nước làng Gióng
Người anh hùng làng Gióng đuổi giặc Ân, nhổ tung bụi tre, vung lên thay gậy sắt
Tre của người anh hùng đời xưa đã dẹp tan quân giặc nước
Tre thời nay lại có những anh hùng của thời nay
Tre anh hùng của một dân tộc anh hùng
Tre đi vào cuộc trường chinh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Tre phá đồn giặc, tre đi xung kích
Những đòn tre, những thang tre, những liếp nứa đã bắc qua cầu, đã mở đường cho anh bộ đội tiến lên… nước Việt Nam tiến lên
Không một trở lực nào ngăn được bước chân anh bộ đội, vì anh bộ đội có nhân dân
Những người dân công, những người cha, những người mẹ, những người chị, những người vợ, những người thân yêu nhất của anh bộ đội, đi dân công phục vụ tiền tuyến
Đường xa, gánh nặng, bước chân đi thoăn thoắt
Dốc núi, đèo cao, đòn gánh kĩu kịt…
Bộ đội qua sông, thì có ngay bè nứa vạn chài và những thuyền nan tre, sẵn sàng phục vụ chuyển quân
Từ thuở ấy mới có câu: Bộ đội với dân như cá với nước…
Có ai quên được những chuyến đò ngang qua vị trí quân thù…
Tình quân dân còn sâu nặng hơn tình cá với nước
Điệu “hò kéo pháo” vang lên là giai đoạn mới của cuộc trường chinh bắt đầu
Trong ta không phải chỉ có tre nứa:
Ta đã cướp được súng của giặc bắn vào đầu giặc
Những khẩu đại bác, chiến lợi phẩm Biên giới, Nghĩa Lộ, Hòa Bình, đi lên mặt trận Điện Biên Phủ
Tre nứa lại bạn cùng sắt, thép
Chạc nứa, đòn tre cõng pháo đi lên.
Tre đã dự trận Điện Biên Phủ
Chiến thắng đi lên!
Và đây là những bước chân đi vang tiếng nhạc của cuộc hành quân chiến thắng, với quang vinh trên những lá cờ còn in khói lửa và dấu bụi trường chinh
Giờ đây ta không phải chỉ có tre, có nứa
Những người anh hùng của thời nay đã đến lúc có sắt, có thép trong tay
Tre với anh bộ đội
Tre hòa tiếng hát khải hoàn
Giữa đoàn quân nhạc, rộn vang lên mười cây sáo trúc
Nhạc của trúc, nhạc của tre là khúc nhạc của đồng quê
Nhớ một buổi trưa nào, nồm nam cơn gió thổi, khóm tre làng rung lên man mác khúc nhạc đồng quê
Diều bay, diều lá tre bay lưng trời… Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời… Gió đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều
Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông hãy lắng nghe tiếng hát giữa trời cao của trúc, của tre…
“Tre già măng mọc”
Măng mọc trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi Việt Nam
Lứa măng non của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Các em, các em rồi đây lớn lên, sẽ quen dần với sắt, thép và xi-măng cốt sắt
Nhưng, nứa, tre còn mãi mãi với các em, còn mãi với dân tộc Việt Nam, chia bùi sẻ ngọt của những ngày mai tươi hát, còn mãi với chúng ta, vui hạnh phúc hòa bình
Ngay mai, trên đất nước này, sắt, thép có thể nhiều hơn tre, nứa
Nhưng, trên đường trường ta dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát
Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình
Tre sẽ càng tươi những cổng chào thắng lợi
Những chiếc đu tre vẫn dướn bay bổng
Tiếng sáo diều tre cao vút mãi…
Cây tre Việt Nam!
Cây tre xanh, nhũn nhặn, ngay thẳng, thủy chung, can đảm
Cây tre mang những đức tính của người hiền là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam.



Lập dị 
      Mà hay


Mở tập thơ nhỉnh hơn lòng bàn tay với chữ thư pháp rất đẹp, với các tiêu đề: :”Lục bát lên đồng” kèm chú giải “Chữ mới giọng xưa - HTX thơ Hồn Rơm - Phụ bản chép tay - Véo ra trong điệu ru của mẹ”.  Tôi giật mình đưa mắt tìm tác giả thì ông đã xách chiếc bị cói đi đâu mất. Người này điên chăng? Hay là thần kinh có vấn đề gì chăng? Đã thế bìa lại vẽ một con trâu đang tắm chua thêm dòng chữ “Cho xuân Kỷ Sửu”. Phía sau còn nghộ nghĩnh hơn nhiều: HTX thơ thủ công Hồn Rơm (Gớm nữa, lại có cả thơ thủ công, thơ mậu dịch, thơ nhà máy?) Tiếp đó như là giới thiệu trích ngang và ngành nghề của mình: “Chuyên chế tạo ca dao/Sản xuất thơ sạch/Nguyên liệu cổ truyền/Ngôn ngữ dân gian/Bền cùng trí nhớ/Kiểu dáng độc nhất/Chữ nghĩa gì nhất/Giọng điệu ấy nhất/Độc giả lạ nhất/Giá bất đồng nhất”.  Tiếp đó, ngài còn kẻ một cái khung trông như chiếc quan tài nghoệch ngoạc mấy chữ “Thơ chui cấm đọc trộm”, phía dưới kèm thêm dòng chữ “Không bán chỉ mừng tuổi thơ. Người yêu thơ mừng 21.686 đồng ; Người chán thơ mừng 12.868 đồng”. Và kèm theo đó là một cái dấu đỏ chót hình vuông chắc chỉ Văn Thùy mới đọc nổi. Một bạn văn nghệ không biết tên ghé sang vì tò mò thốt ngay hai tiếng: Điên rồ!
       
Người Việt tiếng Việt chữ Việt thơ hồn Việt

PHÙNG VĂN KHAI

Một mai hóa cát bụi rồi
Biết ai hú vía cho tôi thơ tình.

Người đi đan lát cao sang
Tôi ngồi rút sợi trăng vàng dệt thơ.

Người xa xa đến mịt mờ
Người gần thì cứ giả vờ như xa”.

Không ai có thể hình dung chuẩn xác về Văn Thùy khi chưa đọc thơ ông. Người đời mới gặp lần đầu bảo ông là một kẻ gàn, râu tóc xõa xượi cứ đi lang thang khắp nơi khắp chốn, vui đâu chầu đấy người lúc nào cũng như nửa tỉnh nửa say. Tôi gặp Văn Thùy trong một Đại hội văn nghệ tỉnh. Có lẽ rắc rối nhất trong các loại đại hội là Đại hội văn nghệ tỉnh. Dường như ở đó phơi bày tất tần tật bộ mặt của giới văn nghệ sỹ tỉnh, như nghe thấy những cãi cọ om sòm mất thể diện về tiền bạc, nghệ thuật, thậm chí có đại biểu còn kể tội lãnh đạo hội đi nhà nghỉ với thái độ rất ăn thua. Trong mịt mù tạp nham ấy, một ông già khó đoán tuổi xách cái bị cói lân la đi tới các đại biểu ngồi dãy ghế dưới những tập thơ viết tay đóng xén xồm xoàm, xộc xệch tặng bạn bè. Mà tặng rất chính xác, không nhầm lẫn kể cả là những người chưa gặp, ví dụ như tôi. Văn Thùy bảo: “Phùng Văn Khai hả, nghe danh tiểu ca lâu rồi nay huynh mới được gặp, tặng mấy tập đọc chơi!”. Tôi bắt tay và nhìn ông, giới văn nghệ tôi biết cũng nhiều nhưng chưa gặp và chưa đọc ông ở đâu. Tôi rất sợ những ông già làm thơ và đọc thơ của họ dù cũng đã nhiều lần kiên nhẫn chịu trận. Bắt tay ông rồi mở tập thơ nhỉnh hơn lòng bàn tay với chữ thư pháp rất đẹp, với các tiêu đề:

”Lục bát lên đồng” kèm chú giải “Chữ mới giọng xưa - HTX thơ Hồn Rơm - Phụ bản chép tay - Véo ra trong điệu ru của mẹ”.  Tôi giật mình đưa mắt tìm tác giả thì ông đã xách chiếc bị cói đi đâu mất. Người này điên chăng? Hay là thần kinh có vấn đề gì chăng? Đã thế bìa lại vẽ một con trâu đang tắm chua thêm dòng chữ “Cho xuân Kỷ Sửu”. Phía sau còn nghộ nghĩnh hơn nhiều: HTX thơ thủ công Hồn Rơm (Gớm nữa, lại có cả thơ thủ công, thơ mậu dịch, thơ nhà máy?) Tiếp đó như là giới thiệu trích ngang và ngành nghề của mình: “Chuyên chế tạo ca dao/Sản xuất thơ sạch/Nguyên liệu cổ truyền/Ngôn ngữ dân gian/Bền cùng trí nhớ/Kiểu dáng độc nhất/Chữ nghĩa gì nhất/Giọng điệu ấy nhất/Độc giả lạ nhất/Giá bất đồng nhất”.  Tiếp đó, ngài còn kẻ một cái khung trông như chiếc quan tài nghoệch ngoạc mấy chữ “Thơ chui cấm đọc trộm”, phía dưới kèm thêm dòng chữ “Không bán chỉ mừng tuổi thơ. Người yêu thơ mừng 21.686 đồng ; Người chán thơ mừng 12.868 đồng”. Và kèm theo đó là một cái dấu đỏ chót hình vuông chắc chỉ Văn Thùy mới đọc nổi. Một bạn văn nghệ không biết tên ghé sang vì tò mò thốt ngay hai tiếng: Điên rồ!

Nhưng Văn Thùy không điên, thơ ông cũng hoàn toàn không điên rồ mà rất chính xác như sự tự nhận bảo là khiêm nhường cũng đúng mà cho là cao ngạo cũng không sai của ông: Người Việt tiếng Việt chữ Việt thơ hồn Việt. Không điên về thơ thì ngay lúc đó tôi đã xác định được còn không điên về người thì vài tháng sau chúng tôi đã trở thành một đôi bạn vong niên và tôi khẳng định Văn Thùy hoàn toàn tỉnh táo chưa kể có phần khá tinh quái nhưng hồn nhiên nhất quán như chính thơ của ông.

Lẻn vào cửa Khổng sân Trình/Véo câu lục bát tụng kinh ghẹo rùa/Xé rào lấm lét góc chùa/Dứ vần lục bát bỏ bùa vú chuông…

Tết này nghé ọ mấy câu/Ra giêng lại vắt họ trâu đi cày/ Trâu ơi ta hỏi trâu này/Gảy bao lục bát cho đày tai xuân.

Yêu đương chọn gió trái mùa/ Ngày dưng cũng hẹn góc chùa thỉnh môi.

Em ăn mày Phật cửa chùa/ Tôi thành hành khất bốn mùa yêu chay”.

Ngay trong hội nghị ấy, tôi đã đọc sạch sành sanh thơ của Văn Thùy với một sự say mê và đau xót và đã cười ngả nghiêng, cười sằng sặc đến mức mấy ông bạn tưởng thần kinh tôi có vấn đề. Văn Thùy định nghĩa về nghề thơ rất lạ lùng:

Làm thơ khổ cái thân chưa/ Răng thiếu lục bát mồm thừa thất ngôn.

Xổ ra một đống thơ tình/ Nửa thành giấy góa nửa rình tặng nhau.

Bóng ta đổ dưới chân ta/ Cả đời không bước nổi qua bóng mình.

Người khoác áo mới cho thơ/ Ta choàng lục bát nắng mưa nâu sồng.

Từ ngày dại dột bịa thơ/ Chỉ vì vô phúc bất ngờ gặp nhau/ Họa hoằn ngáp được vài câu/ Ngửa ra trật thó có đầu không đuôi.

Khôn ngoan đối mặt dại khờ/ Hai bờ đê chẳng bao giờ gặp nhau.

Con sông mưa lắm càng đầy
Anh mây gió lắm càng gầy xác ve.

Nhà văn hơn hẳn nhà thơ
Nhà thơ nhà cửa đơn sơ hơn lều.

Thơ tình nửa rạ nửa rơm
Chẻ ra đan rọ đi đơm cá mè.

Mê thơ là tội giời đày
Càng béo chữ nghĩa càng gầy niêu cơm.

Em ơi cố thủ trong nhà
Gặp người sáo mép chớ ra nhìn mồm.

Vào rừng chữ nghĩa nguyên sinh
Leo cây lục bát cho mình hoang sơ.

Thơ Đường ngọt tận bên Tầu
Cưỡng ngôn bát cú làm dâu nước mình…

thì có thể xếp Văn Thùy vào loại nhà thơ có những định nghĩa về chính nghề nghiệp của mình một cách ngược đời, ẩm ương nhất.

Xưa nay các nhà thơ cứ hay ví mình với đất trời trăng sao, thậm chí coi cả nguyên thủ, hoặc thủ trưởng trực tiếp của mình chẳng ra quái gì, chẳng bằng mấy câu thơ ẩm ương của họ. Văn Thùy lại hoàn toàn ngược lại, ông giễu cợt nhưng chính ra là tôn vinh thơ, đôi lúc mắng cả thơ Đường, thơ Tầu nhưng người đọc chỉ thấy sảng khoái mà không hằn học, đau đớn mà vẫn ôm cười kể cũng đáng hàng cao thủ vậy. Hãy nghe quái nhân Văn Thùy  giới thiệu gia cảnh, sở thích, tâm tư nguyện vọng, chí hướng…của mình:

Được phong danh hiệu hộ nghèo
Nhà ta phấn đấu noi theo kiệt cùng.

Cưới xong con cái ăn riêng
Tụi bay như mẻ bóp riềng tự lo.

Trăm năm tính chuyện vợ chồng
Liếm môi làm rể nhà ông Chí Phèo.

Em đi tôi chẳng hỏi gì
Tôi về em cứ lầm lì soi nhau.

Anh đi em ở lại nhà
Lá chanh em thái đùi gà em băm.

Nắng gì nắng mãi không ngơi
Mưa gì ngớt đến nửa vời lại mưa.

Mới từ gặp gỡ ngẩng lên
Chia li dằn xuống buồn quên cả cười.

Bình minh nhuộm đỏ mặt người
Hoàng hôn chẳng quệt mép cười nhọ nhem.

Bây giờ tôi chẳng giống tôi
Ngày đi săn nắng đêm ngồi bẫy trăng…”

thì tôi đã thấy gan ruột của Văn Thùy đã bày cả ra cho người đời xem mặc kệ kẻ khen người chê ông đã như một ngư ông đắc lợi. Mà gan Văn Thùy là loại gan cóc tía, gan hùm, mật rắn chứ không phải loại thường. Về cách dùng chữ của ông không những gan ruột mà còn không chịu được sự xoàng xĩnh thông thường. Chỉ cần qua thơ biết ông cực ghét loại xáo mòn, giả vờ giả tảng. Thơ ông là sự huỵch toẹt nhưng là một huỵch toẹt công phu thâm hậu và yêu thơ đến thắt lòng:

“Lời chào nhạt thếch nhớ mong
Bắt tay lạnh ngắt gan lòng bàn chân.

Đã đi đi đến tận cùng
Đã yêu yêu đến phát khùng thông gia.

Mai sau về cõi hư vô
Đốt câu lục bát gió mưa gọi hồn.

Chót ăn bả giọng điệu xưa
Thích nghe gai góc xin chừa tôi ra”.

Nhà thơ Văn Thùy quê ở Thị trấn Ân Thi - tỉnh Hưng Yên, ông luôn thoắt ẩn thoắt hiện như chính thơ mình. Ngày xưa con bận con mọn vất vả đã có cái tính ham chơi ấy. Bây giờ con cái phương trưởng ông càng đi tợn, đến mức nhiều lần chúng tôi săn tìm ông không được hỏi con cái không biết bao giờ ông đi đâu và càng không biết bao giờ sẽ về. Thế là các anh chị hò nhau sắm cho ông cái di động nhưng tính ông rất hay quên và nhiều khi nghe máy chính ông cũng không biết mình đang ở đâu, phải ôi a một lúc kết hợp trí thông minh của nhiều người mới xác định được. Ngoài tài thư pháp đã được xếp hạng trong chính giới mà những nét bút phóng túng của ông đã đạt đến độ quái kiệt người đời thán phục thì hiển nhiên tài thơ trong đó có mảng thơ tình đã định vị ông cũng ở hàng cao thủ thơ lâm:

Xin em đừng mặc áo dày

Cho tôi sờ áo một lần
Đêm nay bất chấp tử thần gọi tên
Một lần thôi chẳng vòi thêm
Chạm tay vạt áo khát thèm đã tan
Đã âm thầm nỗi yêu khan
Một phen mó áo vô vàn ngẩn ngơ
Hãy tin những tín đồ thơ
Yêu chay nên chỉ dám sờ áo thôi
Ngón tay ngọng mấy đốt rồi
Kể là chín ngón hỏng mười cũng xong
áo gì cứ mỏng mòng mong
Kiểu này rồi đến phải lòng mất thôi
Rủi mai hóa cát bụi rồi
Hú hồn đốt mã cho tôi áo này
Vía van lang bạt cõi mây
Thương tôi đừng mặc áo dày được không


Thơ tình Văn Thùy thế mạnh nhiều khi chỉ ở một cặp lục bát đã trọn gói tình yêu mà vô cùng sâu sắc, uyên thâm và thực tiễn biết mấy. Khác xa những loại tình yêu nỉ non than thở, nói bóng nói gió, nói đông nói tây, thậm chí nói lấy được, mượn mõ vào những tích này điển nọ, thơ Văn Thùy cứ thẳng đường tàu, sâu đến đáy, thành thật đến buốt lòng:

Đâu như em thích tôi rồi
Mẹ cha đã cử nụ cười trực ban.

Đêm qua em đúng là em
Còn tôi thì lại chả thèm giống tôi.

Hoàng hôn đậy bớt nét cười
Sợi trăng buộc lỏng hai người gần nhau.

Trưa nay nắng nẩy mầm rồi
Mắt em sao lại đâm chồi mưa ngâu.

Em còn mặc cả gốc mai
Quay ra người bán mất hai cành đào
So đo nụ thấp hoa cao
Chợ tan còn cặp má đào đợi phai.

Em nguyền khổ hạnh ăn chay
Tôi thề uống cạn đắng cay cõi trần.

(Rồi Văn Thùy kết luận: Yêu chay nhạt gấp mấy lần tình suông). 

Vướng vào đôi mắt lá răm
Đi bộ cũng tội quanh năm đắm đò”.

(Ông kết luận: Bao giờ tôi biết cách mò mắt em).

Phải tay ông gặp Thị Màu
Chẳng sưng đầu mõ cũng nhàu vú chuông
Thiêu thân hiến xác là thường
Đời chê mặc kệ tôi thương Thị Màu.

Lọt sàng anh tụt xuống nia
Em còn đem cái yếm xề hứng ai
Sạn to em sảy ra ngoài
Mắt thưa để lọt phí hoài thân anh

(Rồi chua: Người tình sàng sảy tôi thành giống chiêm).

Xin làm một tiếng chuông chiều
Cho em thỉnh một lần yêu lỡ làng
Gửi em mấy sợi rơm vàng
Để em buộc lỏng mơ màng gió mây.

Ngai vàng cung điện vùi sâu
Sân đình vẫn diễn Thị Màu ghẹo sư.

Ông thơ húng hắng đa tình
Bà thơ âm ỉ bóng hình đa đoan
Đam mê sảy nghé tan đàn
Nụ hôn trốn trại ruột gan sổ lồng
Chưa thơ vợ gắn chặt chồng
Dính thơ bà ấm đầu ông dở người…

Có thể dễ dàng kết luận dù là thơ gì nhưng thơ Văn Thùy bao giờ cũng gắn chặt thế sự, gắn với những lẽ đời, lẽ người, những hành nhân xử thế ở dương gian, và đặc biệt những vần lục bát của ông là những vần thơ của người Việt tiếng Việt chữ Việt và hồn Việt. Sự giễu nhại trong thơ Văn Thùy là một giễu nhại của người từng trải, từng đớn đau và hạnh phúc, vừa kiên gan vừa ngạo nghễ đi qua cuộc đời này một cách đầy chủ động và rất có tổ chức. Ông ý thức rất sâu về cái chưa hoàn thiện trong nhân cách con người cũng như đời sống xã hội mà anh ta đang sống. Con người thực ra cũng còn nhiều mông muội, yếu đuối, dốt nát, hãnh tiến, hợm hĩnh, lười nhác lắm chứ không véo von như các chương trình tivi, báo chí ngợi ca, tuyên dương bằng khen giấy khen đâu. Con người trong thơ văn của Văn Thùy là một con người gốc, thơ Văn Thùy được khởi lên và chắt ra từ cái con  người gốc ấy. Trong đời sống hôm nay, Văn Thùy âm thầm nhưng mạnh mẽ cất một tiếng nói dân dã nhưng trung thực, đáng trọng biết bao. Nó góp phần cho ta tin và yêu hơn cuộc đời này.

( Ảnh nhà thơ Văn Thùy in kèm bài viết này, do nhà thơ Đặng Vương Hương cung cấp!)


Nguyễn Quang Lập
Giới thiệu thơ Bảo Sinh
Cách đây sáu bảy năm chi đó, một hôm Nguyễn Huy Thiệp mời mình đến nhà ăn cơm, nói ông đến đi, hôm nay có một nhân vật hay lắm. Mình đến, thấy một ông nho nhỏ thâm thấp đen đen ngồi nói chuyện tay bo với đám văn tài khét tiếng ba miền đầy tự tin không một chút kiêng dè, biết ngay đó là người mà Thiệp nói hay lắm.
Thiệp giao du thật lắm quái nhân, mỗi ông một nết hay, tài thật không ai lẫn với ai, ông này chắc cũng thế. Thiệp chìa tay giới thiệu với mình, nói ông này là Bảo Sinh bạn tôi, chỉ nói vâỵ thôi không nói gì thêm. Nhưng chỉ hơn mười phút sau mình biết ngay Bảo Sinh là nhà thơ Folklore trứ danh, Thiệp đã từng có bài khen, suốt buổi nhậu hôm đó chỉ ngồi nghe  Bảo Sinh đọc thơ cười lăn cười lóc.
Văn nghệ có cái hay, phàm đã thích nhau thì chỉ cần gặp một lần đã coi như quen nhau từ vạn kiếp. Mấy hôm sau Bảo Sinh đến nhà mình chơi, tặng mình bốn năm tập thơ, đọc sướng rêm. Một đời thơ người ta chỉ mong có vài câu thơ đóng đinh vào trí nhớ người đời là mừng lắm rồi, ông này có đến vài chục câu, thậm chí vài trăm câu, phục lăn.
Té ra cái câu được truyền tụng lâu nay: Ra đường sợ nhất công nông/ Về nhà sợ nhất vợ không mặc gì là của Bảo Sinh, câu Vợ là cơm nguội nhà ta/ Lại là phở tái thằng cha láng giềng cũng của Bảo Sinh nốt. Nhiều câu cười  buồn, cười đau, cười đắng… vui và hay, tài. Có lẽ hay nhất câu này: Cùng chung một chuyến đò ngang/ Kẻ thì sang bến người đang: trở về/ Lái đò lái mãi thành mê/ Sang về chẳng biết mình về hay sang. Thơ như vậy mà báo chí ngại in, nghĩ cũng lạ.
Gặp nhau nhiều lần, lần nào Bảo Sinh cũng nói khi nào ông đến thăm khách sạn chó của tôi nhé. Mình bận lắm việc cù nhằng, cứ vâng vâng nhưng không đến được. Cũng tưởng là anh nói chơi thôi, làm gì có khách sạn chó nên cũng không mặn lắm chuyện thăm thú, may nhờ có Nguyễn Việt Hà kéo đến tận nhà Bảo Sinh mới ngả ngửa người, té ra có khách sạn chó thật, thất kinh luôn.
Nhà anh ở phố Trương Định, một mình cai quản cả khuôn viên rộng rinh rang, đầu ngõ treo cái biển to đùng: Khách sạn chó, thật táo gan. Mình nói chỉ riêng cái biển này cũng đủ cho người ta xách cổ anh lên phường năm lần bảy lượt, đúng không. Bảo Sinh cười hì hì, nói ôi nhiều chuyện lắm nhiều chuyện lắm.
Vào đấy mới biết người chỉ ở một góc, còn lại toàn chó mèo, đủ loại chó mèo, con bé tí bằng nắm tay, con to đùng như con nghé… Ở góc xa cuối vườn là nghĩa địa chó mèo được xây cất rất là… cung kính, hi hi. Hèn gì Bảo Sinh có biệt danh vua chó kể từ 1990, ai muốn có giống chó mèo tốt cứ hỏi anh, nhà ai có chó mèo ốm đau bệnh tật cứ hỏi anh là xong hết.
Khuôn viên được chia ra nhiều ngăn, trên các lối đi rải đá răm, thỉnh thoảng có những phiến đá xanh đựơc mài nhẵn bóng khắc thơ Bảo Sinh, thơ yêu lẫn thơ thế sự, thơ thiền lẫn thơ bố nhắng rải đều trên các phiến đá vườn nhà anh.
Cái hồ rộng chừng hai sào là thế giới hổ lốn vừa lạ vừa vui, chỗ thì ngộ nghĩnh chỗ thì đẹp mắt. Dưới hồ là dãy tượng đoàn thầy trò Đường tăng đi lấy kinh. Trên bờ có Tiên đồng Ngọc nữ, có Cửu trùng đài đắp tượng 18 vị La hán xếp thành hàng bên tường rào,  mỗi vị một bát hương, một phiến đá đề thơ Bảo Sinh. Bên này hồ là tượng Phật uy nghi, bên kia bờ hồ là tượng Bảo Sinh cũng uy nghi không kém, cả hai đều tay bắt quyết miệng nam mô, he he.
Chó và mèo, người và ngợm, phật và ma… cả một thế giới lạ hoặc giữa phố phường Hà Nội, ai đã tới thăm một lần suốt đời không thể quên. Trong cái thế giới ấy ông chủ uống rượu đọc thơ, bà chủ tụng kinh niệm phật, chó sủa gâu gâu, mèo kêu meo meo… vui hơn tết. Khu vườn chỗ cây cổ thụ toả bóng râm mát, chỗ cỏ cây bụi bờ chen chúc trong nắng vàng hoe. Mùi hoa lan, hoa nhài hoa huệ lẫn trong mùi mèo mùi chó mùi người…  vừa thơm vừa tục.
Bảo Sinh nói tôi đi bộ đội thoát chết trận là nhờ tiên nhờ Phật, ra quân thoát chết đói là  nhờ mèo nhờ chó, còn vui vẻ đến giờ là nhờ người  nhờ thơ,  người ta ơn huệ đôi ba người còn tôi mang ơn cả thế giới.
Có một chuyên anh ít kể nhưng ai hỏi anh đều kể rất vui, đấy là chuyện bố anh. Cụ là một trong những tay vẽ truyền thần đầu tiên của Hà Nội, khét tiếng một thời. Hôm Lê Thiết Cương tổ chức triển lãm tranh truyền thần, nhiều bức của cụ được bày ai cũng thích. Cụ vẽ truyền thần và làm thơ, dạy cho Bảo Sinh vẽ truyền thần và làm thơ, có lẽ dòng thơ đặc sản Bảo Sinh có ảnh hưởng nhiều từ thơ của cụ.
Đến khi nghề vẽ truyền thần hết thời cụ cũng đã già, con cháu cũng đã ăn ra làm nên, có của ăn của để thì cụ mới đi truyền bá thơ cụ. Sáng sáng cụ ra Bờ Hồ đi bộ đôi vòng rồi tập hợp các cụ ông cụ bà yêu thơ tới nghe cụ đọc thơ, cụ trả tiền nghe thơ đàng hoàng, gọi là nhuận tai.
Những người khen đúng chỗ bao giờ cũng được hưởng nhuận tai nhiều gấp đôi gấp ba người chỉ biết nghe không biết khen, hi hi. Bảo Sinh nói nhuận tai của cu lên đến mấy trăm triệu không phải chuyện bỡn. Ngày cụ chuẩn bị về trời, cụ gọi con cháu vào, tưởng là để nghe nói lời di chúc, hoá ra không, cụ hỏi thơ bố có hay không. Con cháu chẳng ai đọc thơ cụ nên lúng túng không biết nói sao, trừ Bảo Sinh, anh nói thơ bố hay lắm, con xin theo nghiệp bố. Cụ cười hắt một tiếng, nói mày là thằng có hiếu, nói xong thì đi, tay nắm chặt tay  Bảo Sinh.
Chuyện như phịa nhưng mà đúng vậy, Bảo Sinh nói tôi bỏ nghiệp truyền thần theo “nghiệp chó”, chỉ có thơ là tôi quyết nối nghiệp bố tôi, bố tôi mừng lắm, nói làm nhà thơ dân gian thôi con nhé, đừng làm nhà thơ nhà nước rách việc lắm. Bố tôi yêu thơ đến chết, chắc rồi tôi cũng yêu thơ đến chết, chỉ có một cái khác thôi… Mình hỏi khác cái gì, anh trâm ngâm không nói.
Rất lâu sau Bảo Sinh mới nói. Anh uống đủ một chầu rượu ngon, ngẩng lên nhìn trời, nói bố tôi suốt đời tôn thờ một cô gái, bức truyền thần đẹp nhất bố tôi vẽ là bức chân dung cô ấy. Cô ấy chết trẻ, kể từ đó ngày ngày bố tôi làm thơ, ra bưu điện gửi về đúng địa chỉ nơi cô ấy sống. Hơn nửa thế kỷ vật đổi sao dời, cái địa chỉ ấy chẳng còn, cụ biết nhưng cụ cứ kiên quyết không thay địa chỉ.
Mình nói thế anh tôn thờ ai, làm thơ cho ai, Bảo Sinh nói tôi tôn thờ cả thế giới, làm thơ cho cả thế giới. Rồi Bảo Sinh nhấp một chút rượu, ngâm nga: Cuối cùng tất cả chúng ta/Đều lên nóc tủ ngắm gà khỏa thân. Mình nói đó là câu thơ dọa chết hay nhất, anh mỉm cười lắc đầu, nói không không, tôi đang doạ người sống đó chứ. Và anh nhăn răng cười, cái răng sứt lộ thiên, mắt nhắm tít, đầu giật giật y chang  Đỗ Mục khi say, chẳng biết có đúng không nữa.


THƠ BẢO SINH (Trích)
-Cuối cùng tất cả chúng ta
Đều lên nóc tủ ngắm gà khỏa thân.

-Lạc trong đời đạo dắt ra
Lạc trong đạo sẽ có ma dắt vào.

-Trời đất phải sinh ra ta
Nếu không sao được gọi là hóa công
Vào ra trời đất mênh mông
Thân ta là chỗ hóa công ở nhờ

-Ra đường sợ nhất công nông
Về nhà sợ nhất vợ không mặc gì!

-Vợ là cơm nguội nhà ta
Lại là phở tái của cha láng giềng

-Ai cũng làm được nhà thơ
Ai cũng có thể “sù cơ” của mình

-Muốn đuổi khách ra khỏi nhà
Đọc thơ được giải họ ra tức thì

-Muốn cho trộm chẳng đến nhà
Đề vào trước cửa: Đây là nhà thơ

-Cùng chung một chuyến đò ngang
Kẻ thì sang bến người đang trở về
Lái đò lái mãi thành mê
Sang về chẳng biết mình về hay sang.

-Đi đái thì đứng giữa đường
Hôn nhau lại đứng sau tường để che

-Ghế thì ít, đít thì nhiều
Cho nên đấu đá là điều tất nhiên

-Ba lạng ở chốn động tiên
Thừa chỗ đủ để cưỡi lên vạn người

-Im lặng vợ bảo giận gì
Tươi cười vợ bảo chắc đi với bồ

-Vợ là thánh chỉ vua ban
Có sao dùng vậy miễn bàn đúng sai

-Mình ngu nhiều kẻ ngu hơn
Cho nên được gọi là khôn hơn người
Em xinh đâu bởi nụ cười
Em xinh là bởi nhiều người xấu hơn

-Muốn so thơ dở thơ hay
So bồ của họ biết ngay thôi mà…

-Suốt đời chỉ yêu một người
Bệnh ấy còn nặng gấp mười ung thư




ĐỘT NHẬP HANG Ổ THƠ BÚT LÔNG
Người ta đã gán cho Văn Thùy những cái tên: lục bát giang hồ, nhà thơ vườn hoang, lãng tử thi, dị nhân đạo sỹ, quái nhân hiệp khách, thu thủy chữ, cửu vạn chữ,... đánh bả nghiện, bỏ bùa mê thơ, làm ngẩn ngơ thêm khối kẻ...

HỢP TÁC XÃ THƠ HỒN RƠM
Anh em yêu mến Văn Thùy mà gọi trìu mến thế. Còn Văn Thùy, luôn và hằng tự giới thiệu mình trong các tập thơ chép tay bán đắt như tôm tươi là hợp tác xã thơ Hồn Rơm.
Thơ Văn Thùy được gọi là thơ bút lông vì ông già 70 cái hom hem này có biệt tài trình bày thơ lục bát của mình bằng thư pháp rất đẹp. Và không ai có thể tin rằng “anh già” này đã “bịa” ra vô số câu thơ tình cực hay làm ngơ ngẩn lòng người.
Những cặp lục bát tài hoa được Văn Thùy thể hiện ngọt như mía lùi, nhẹ như tên và tự nhiên như... ruồi. Chữ nghĩa không cầu kì, uốn éo, văn phong đa dạng, lúc phảng phất hồn thơ Nguyễn Bính, nhưng không man mác, nhè nhẹ mà rất mạnh. Mảng thơ thế sự thì quyết liệt, đáo để, bỗ bã, chữ nghĩa “tử tế” và tung hoành. Đến báo chí cũng phải công nhận, Văn Thùy là người chuyên “chế tạo” ca dao và “sản xuất” thơ sạch.
Sau Tết Nguyên tiêu người ta lại kêu lên: Cho lão dị nhân Văn Thùy đi cai nghiện thơ. Nhưng chưa cai nghiện thơ được cho lão thì lão đã lôi kéo,
ĐÁO ĐỂ
Lúc tôi vào nghề, thầy tôi dặn: “Nhà báo đừng “đú” với nhà thơ. Nhà báo luôn cần tỉnh táo. Mà nhà thơ thì “phiêu” lắm.”.
Văn Thùy tửng từng tưng với những cái nhìn chòng chọc vào thơ, vào nhà thơ. Thùy mang cái đáo để vào thơ mình:
“Dăm bài dở mếu dở cười
Nội soi chữ, thấy nhiễm lời thằng khôn”.
Bia miệng tạc một Thị Màu hư, vậy mà: “Đời chê thì để tôi thương lấy Màu”. Tán tỉnh:
“Mà này, quái phải tương tư/
Cứ tôi, cần cóc gì sư nhẵn đầu”.
Rồi công bố thiên hạ:
“Phải tay này gặp Thị Màu
Chẳng sưng đầu mõ, cũng nhàu vú chuông”.
Cái đáo để khiến người ta đọc thơ Thùy phát... vã mồ hôi hột.
Văn Thùy dùng khẩu ngữ, “ộc” ra đằng miệng kiểu dân gian. Đặc biệt dùng thể loại lục bát để làm thơ, vì “đó là kho báu ông cha để lại. Sao phải vay mượn du nhập thể loại khác vào thơ Việt Nam”. Với Văn Thùy:
“Thơ Đường hộ khẩu bên Tầu/
Cưỡng hôn bát cú làm dâu nước mình”.
Vì thế, chả việc gì phải dùng “hộ khẩu” nhà hàng xóm. Cứ chính chủ sổ đỏ, lục bát câu 6 câu 8 mà chơi.
THƠ TỈNH TÌNH TINH
Văn Thùy có tam sư là ba vị nổi tiếng: Bùi Xuân Phái (Phái “phố”), Vũ Đình Liên (tác giả bài thơ “Ông đồ”) và Trần Văn Lưu (chụp ảnh). Nhắc đến tam sư, Văn Thùy ngùi ngùi: “Tam sư đều về với tổ tiên rồi. Còn mỗi mình mình bốc bải chữ đời thôi”.
Bị vạ chữ năm 1978, Văn Thùy “chạy” về Hưng Yên rồi “đóng đô” luôn. Lang thang làm anh thợ ảnh, rồi khi đã vào hàng lão, lại “đốc chứng” ra làm thơ. Đặc biệt là cách làm thơ “tán gái nịnh đầm”. Có lẽ, rất gợi cảm, tế nhị, hóm hỉnh nên được nhiều người ngưỡng mộ. Người ta lích rích đọc thơ bút lông cho nhau nghe bất kể nơi nào: trong văn phòng, công sở, trên chiếu nhậu, trong trường đại học, thậm chí là cả trên ruộng cày...
Thơ tình của Thùy chỉ một cặp lục bát:
“Em đi mấy bước nữa rồi
Dẫm chồng lên vết hôn hồi mới yêu”.
Nhưng hóm hỉnh, tinh nghịch như còn trai trẻ:
“Vừa ban thông điệp yêu đương
Bỗng dưng cả bộ dát giường động kinh”
Hay:          
                   Có gì mạnh đến lạ thường
Yêu suông đã bốn chân giường còn hai”.
Thật khó tưởng tượng một ông lão đã ngoài 70, mới ti toe bước vào làng thơ cách đây 11 năm lại được nhiều bạn đọc trong cả nước thuộc thơ mình đến thế.
 Hô thần chú hú vô thanh
Điều phong vận thủy vẽ tranh bằng... mồm
VẼ TRANH BẰNG… MỒM
Văn Thùy có một không hai, vô địch thiên hạ ở cái khoản bán thơ của mình. Năm nay, ngày thơ Việt Namở Văn Miếu, cuối buổi đếm tiền, tổng số tiền bán thơ của lão lên tới 2 triệu. Mà là thơ viết tay, bày trên mẹt, chả phải loại đài các bóng bẩy gì.
Trong khi các nhà thơ khác phải bỏ tiền ra để in thơ, thì Văn Thùy chuyên viết thơ mình bằng thư pháp, vẽ tranh trang trí cho thơ bằng... mồm, rồi bày lên mẹt bán. Có bài thơ tình hai câu lục bát 14 chữ, người ta trả Văn Thùy 100 nghìn. Chả hiểu, lão thơ làm thế nào mà còn bán được cho anh đồng nát một cặp lục bát 20 nghìn đồng. Tôi trêu: “Làm tiền như ranh”.
Trong tuềnh toàng, không thể gọi là một căn nhà của thế kỉ 21, tôi nằng nặc đòi Văn Thùy “biểu diễn” cái thể loại vẽ tranh bằng... mồm. Bởi, cái gì tai nghe mà mắt chưa thấy thì chả có lí do gì để tin cả.
Văn Thùy lườm tôi một cái. Kệ. Các cụ chả bảo phải khích tướng là gì. Y rằng, lão thơ lôi hòm  đồ nghề ra. Có bút lông, mực tàu. Tôi chìa tờ  giấy khổ A4 cho lão. Văn Thùy nhỏ một giọt mực vào trang giấy bằng bút lông. Một giọt mực to, đậm, đen sì nằm thu lu trên giấy. Lão nghiêng tờ giấy, phồng mồm trợn má thổi đánh phù một cái, giọt mực bắn tóe tòe loe, lão nghiêng qua nghiêng lại một lúc, chả hiểu thổi phè phè thêm vài cái thế nào, mà xong cái gốc rễ cây tre.
KHÔNG “ĐỐM LƯỠI”, NÊN CHỈ LÀM THƠ
Văn Thùy “bán” được thơ, nhưng vẫn nghèo. Lại còn bao biện: “Đã là nhà thơ, mà nhung gấm lầu sang thì không bao giờ ra thơ được. Cuộc đời tôi, thơ như là định mệnh. Không trở thành nhà thơ thì chỉ có thành tướng cướp. Tướng cướp, hay làm nghề lừa đảo thì phải có “đốm lưỡi”, phải nói khôn và đủ sức khỏe. Mình nói ngu, nói ngơ, không có “đốm lưỡi”, không lừa đảo được thì chỉ có “sa đọa” vào làm thơ:
Đam mê là tội giời đày
Càng béo chữ nghĩa càng gày niêu cơm”.
 Văn Thùy nghèo thật. Giữa thị xã  Ân Thi (Hưng Yên) sầm uất, cái nhà xiêu vẹo, lại sâu tụt xuống so với mặt đường và các nhà khác trông giống như một cái tổ co ro thảm hại.
Thùy vừa cười: “Người ta tôn đường bốn lần, mình không có tiền, nên cứ tụt sâu xuống” vừa mân mê cái khóa cửa và cái cưa. Sự thể, là khi trở về, thì lão thơ không nhớ được mình đã để chìa khóa ở đâu, đành sang hàng xóm mượn cái cưa về cưa khóa cho chúng tôi vào.
Thôi em cố gắng ở nhà
Lá chanh cứ thái đùi gà cứ băm
Tôi đi vét chữ vài năm
Trộm xong lục bát về nằm ru em
 Tôi vừa ủn cái cửa một cái, nó tung cả cái bản lề chổng chồng chông lên làm tôi mất đà hết hồn. Còn lão thơ thì thêm lần nữa lại ngẩn ra... tiếc rẻ. Đồ đạc quý giá nhất có lẽ là cái ti vi không màu bé tí tị tì ti. Trên tường treo những bài thơ thư pháp, những bức ảnh kỉ niệm với tam sư. Góc phòng chất ngất những món đồ điện mà theo trình bày của gia chủ thì đó là hậu quả của chứng đãng trí. Muốn có nước nóng giãy đành đạch để pha trà nhưng cắm xong ấm nước thì quên khuấy đi mất. Thế là cháy. Mà không chỉ dừng ở con số vài lần.
Chúng tôi lên xe, sau cái vẫy tay, ngoái lại thấy lão thơ vẫn đang tần ngần bên cái bản lề. Dáng vẻ cô liêu, xiêu vẹo. Mũi cay cay, tôi giật mình, muốn vả vào cái suy nghĩ của mình, vì cái tội tự dưng lại yếu đuối. Đó là một bản lĩnh thơ, một bản lĩnh mang tên Văn Thùy cơ mà.

VIỆT NGA



Thơ Văn Thùy
Thôi em cố gắng ở nhà
 Lá chanh cứ thái đùi gà cứ băm
Tôi đi vét chữ vài năm
Trộm xong lục bát về nằm ru em

Đam mê là tội giời đày
Càng béo chữ nghĩa càng gày niêu cơm.

Hô thần chú hú vô thanh
Điều phong vận thủy vẽ tranh bằng... mồm

Em đi mấy bước nữa rồi
Dẫm chồng lên vết hôn hồi mới yêu.

Vừa ban thông điệp yêu đương
Bỗng dưng cả bộ dát giường động kinh

Có gì mạnh đến lạ thường
Yêu suông đã bốn chân giường còn hai.

Thơ Đường hộ khẩu bên Tầu
Cưỡng hôn bát cú làm dâu nước mình.

Đời chê thì để tôi thương lấy Màu

Mà này, quái phải tương tư/
Cứ tôi, cần cóc gì sư nhẵn đầu.

Phải tay này gặp Thị Màu
Chẳng sưng đầu mõ, cũng nhàu vú chuông.

Dăm bài dở mếu dở cười
Nội soi chữ, thấy nhiễm lời thằng khôn.

Trách em chỉ trách nửa lời
Gặp ai cũng biếu vốc cười ngô rang

Cuộc đời nối mạng là duyên
Nhấp chuột ý tưởng đừng quên cội nguồn

Nói với Văn Thùy 1
                     Trịnh Tuấn
Sau ngày Thùy chết đi rồi
Sẽ có khối đứa đứng ngồi tỉ tê
Một mâm chữ nghĩa đem chia
Hai hàng nội ngoại ra về... tay không!

Ngó qua mấy chữ tồng ngồng
Thương cho giấy góa ưỡn mông khóc thầm...

Nói với Văn Thùy 2
                          Tú Cười
Thơ thơ...sao viết cho vừa...
Lòng sung lòng vả sớm trưa... chát lòng !

___________________________
THƠ BẢO SINH - HÀ NỘI
Cuối cùng tất cả chúng ta
Đều lên nóc tủ ngắm gà khỏa thân.

Lạc trong đời đạo dắt ra
Lạc trong đạo sẽ có ma dắt vào.

Trời đất phải sinh ra ta
Nếu không sao được gọi là hóa công
Vào ra trời đất mênh mông
Thân ta là chỗ hóa công ở nhờ

Ra đường sợ nhất công nông
Về nhà sợ nhất vợ không mặc gì!

Vợ là cơm nguội nhà ta
Lại là phở tái của cha láng giềng

Ai cũng làm được nhà thơ
Ai cũng có thể “sù cơ” của mình
Muốn đuổi khách ra khỏi nhà
Đọc thơ được giải họ ra tức thì

Muốn cho trộm chẳng đến nhà
Đề vào trước cửa: Đây là nhà thơ

Cùng chung một chuyến đò ngang
Kẻ thì sang bến người đang trở về
Lái đò lái mãi thành mê
Sang về chẳng biết mình về hay sang.

Đi đái thì đứng giữa đường
Hôn nhau lại đứng sau tường để che

Ghế thì ít, đít thì nhiều
Cho nên đấu đá là điều tất nhiên

Ba lạng ở chốn động tiên
Thừa chỗ đủ để cưỡi lên vạn người

Im lặng vợ bảo giận gì
Tươi cười vợ bảo chắc đi với bồ

Vợ là thánh chỉ vua ban
Có sao dùng vậy miễn bàn đúng sai

Mình ngu nhiều kẻ ngu hơn
Cho nên được gọi là khôn hơn người
Em xinh đâu bởi nụ cười
Em xinh là bởi nhiều người xấu hơn

Muốn so thơ dở thơ hay
So bồ của họ biết ngay thôi mà…

Suốt đời chỉ yêu một người
Bệnh ấy còn nặng gấp mười ung thư



THƠ VĂN THÙY - HƯNG YÊN

Thôi em cố gắng ở nhà
Lá chanh cứ thái đùi gà cứ băm
Tôi đi vét chữ vài năm
Trộm xong lục bát về nằm ru em

Đam mê là tội giời đày
Càng béo chữ nghĩa càng gày niêu cơm.

Hô thần chú hú vô thanh
Điều phong vận thủy vẽ tranh bằng... mồm

Em đi mấy bước nữa rồi
Dẫm chồng lên vết hôn hồi mới yêu.

Vừa ban thông điệp yêu đương
Bỗng dưng cả bộ dát giường động kinh

Có gì mạnh đến lạ thường
Yêu suông đã bốn chân giường còn hai.

Thơ Đường hộ khẩu bên Tầu
Cưỡng hôn bát cú làm dâu nước mình.

 



à này, quái phải tương tư
Cứ tôi, cần cóc gì sư nhẵn đầu.

Phải tay này gặp Thị Màu
Chẳng sưng đầu mõ, cũng nhàu vú chuông.

Dăm bài dở mếu dở cười
Nội soi chữ, thấy nhiễm lời thằng khôn.

Trách em chỉ trách nửa lời
Gặp ai cũng biếu vốc cười ngô rang
Cuộc đời nối mạng là duyên

Nhấp chuột ý tưởng đừng quên cội nguồn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét