Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

Những hệ thống cáp treo ấn tượng nhất Thế Giới

Những hệ thống cáp treo ấn tượng nhất Thế Giới

Ngồi trên những chiếc cáp treo bốn bề là kính, xung quanh là khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ luôn mang lại cho mỗi du khách cảm giác hồi hộp và phấn khích khó tả.




Tuyến cáp treo CabriO ở Stanserhorn (Thụy Sĩ) có các buồng mở để du khách thưởng ngoạn phong cảnh phía dưới.

Những cáp treo ngoạn mục nhất thế giới - anh 7
Những cáp treo ngoạn mục nhất thế giới - anh 1
Một trong những hoạt động được yêu thích nhất tại Rio de Janeiro, Brazil đó là ngồi cáp treo lên đỉnh núi Sugarloaf và ngắm 360 độ khung cảnh thành phố phía dưới. Trong chuyến cáp treo cuối ngày, du khách sẽ được ngắm cảnh hoàng hôn đẹp ngoạn mục.
Những cáp treo ngoạn mục nhất thế giới - anh 2
Cáp treo ở vịnh Ngong Ping (Đảo Lantau, Hong Kong): Trong vòng 25 phút ngồi trên cáp treo, du khách sẽ lướt qua Vịnh Tung Chung, sau đó hướng về phía Bắc Lantau, phía xa hơn là khung cảnh rộng mở của Biển Đông.
Những cáp treo ngoạn mục nhất thế giới - anh 3
Cáp treo 2 tầng độc đáo ở Cabrio - Stanserhorn, Thụy Sĩ: Chỉ 6 phút ngồi trên cáp treo này, bạn sẽ được tận hưởng những làn gió trên cao luồn qua từng kẽ tóc và ngắm cảnh núi non hùng vĩ đẹp mê hồn.
Những cáp treo ngoạn mục nhất thế giới - anh 4
Cáp treo Aerial, Núi Table, Nam Phi: Đây chính là điểm hút khách du lịch nhất tại Nam Phi. Điều đặc biệt hơn cả đó là, trong chiều đi xuống, cáp treo sẽ xoay 360 độ để du khách có thể chiêm ngưỡng toàn bộ thành phố Cape và cao nguyên núi Table.
Những cáp treo ngoạn mục nhất thế giới - anh 5
Cáp treo Banff (Banff, Canada): Với hành trình dài 8 phút, du khách sẽ được đưa tới độ cao 7.500ft của đỉnh núi Sulphur, cảnh đẹp mê hồn của 6 dãy núi, thung lũng Bow và thị trấn đẹp như tranh vẽ.
Những cáp treo ngoạn mục nhất thế giới - anh 6
Cáp treo Queenstown New Zealand: Đây là tuyến cáp treo nhanh nhất và dốc nhất ở khu vực Nam bán cầu. Tham gia hành trình của nó, du khách sẽ được ngắm nhìn khung cảnh hồ Wakatipu từ độ cao 1476ft.
Cáp treo Emirates Air Line - London, Anh: Khánh thành vào đúng dịp Thế vận hội năm 2012, chuyến đi 10 phút tại đây sẽ cho du khách chiêm ngưỡng khung cảnh ngoạn mục của sông Thames và toàn thành phố.

















Cáp treo Hakone Ropeway, núi Phú Sĩ, Nhật Bản: Một chuyến đi trên cáp treo này sẽ giúp bạn chiêm ngưỡng một cách hoàn hảo nhất về vẻ đẹp kì vĩ của núi Phú Sĩ, biểu tượng của xứ sở Phù Tang.
Báo mới

Thứ Năm, 25 tháng 2, 2016

NON THIÊNG YÊN TỬ


NON THIÊNG YÊN TỬ

Hải Thăng


Quê không xa Yên Tử, nhiều năm đi công tác ở nơi cách Yên tử không xa; biết Yên Tử là linh địa của đất phật. 

Ấy vậy mà chưa một lần đi Yên Tử.
Biết vậy là sai sót. muốn sửa quá mà chưa có điều kiện.



Biết nếu chần chừ có thể sẽ không có cơ hôi.

Hôm qua mình quyết định đầu tư một chuyến du lịch một ngày.
Đánh giá thực lòng chuyến đi chỉ đạt dưới 20% mong muốn nhưng cũng đã làm tôi thoải mái đôi phận. Tôi vẫn mong sao có một chuyến đi Yên Tử chất lượng cao hơn; không hiểu có đạt được hay không - Còn phải nhờ Trời.
Trong chuyến đi hôm qua tôi có mấy vần thơ "Muối sổi" xin khoe cùng các bạn.

ĐƯỜNG LÊN YÊN TỬ
Hải Thăng

Ngó xuống sâu thăm thẳm
Ngước lên vời vợi cao
Trúc - Tùng khoe dáng đứng
Với muôn vàn vì sao.



VỀ THĂM YÊN TỬ
Hải Thăng

Phật tử về hành hương
Còn ta đi vãn cảnh
Trời xuân se se lạnh
Gió nhẹ vờn sương sa

Đoàn người thư thả qua
Đường chênh vênh sườn núi
Vẳng tiếng người xưa lại
Nhớ một thời vàng son.

Thơ viết về một vùng linh đia, đã được mệnh danh là KINH ĐÔ PHẬT GIÁO.
Rất mong được sự thông cảm, góp ý.


MỘT VÀI HÌNH ANH VỀ YÊN TỬ & THIỀN VIỆN TRÚC LÂM










































VỀ HƯU


















VỀ HƯU

Về hưu nọc chạy ra mồm
Thơ tồi, phú kém tiếng đồn gần xa
Về già "Phát tiết tinh hoa"
Nó là Vũ Kiệt - Tay già dở hơi.

Vũ Kiệt
Liễu Giai - Hà Nội

Thứ Tư, 24 tháng 2, 2016

TỰ THÚ


















TỰ THÚ

Liếc nhiều nên bị ngưỡng thiên
Nhìn xuống mù hẳn, nhìn lên lờ mờ
Cứ tưởng Vũ Kiệt làm thơ
Hóa ra hắn bệnh, ngẫn ngờ ngưỡng thiên.

Vũ Kiệt
Liễu Giai - Hà Nội.

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2016

Trở về


Trở về

Ta về quê mẹ đêm nay
Đèn ga xe lửa tròn xoe mắt nhìn
Còi tàu giục thúc con tim
Bánh xe ken két “ phanh “ tìm dấu xưa
Lòng ta nghe đã đổ mưa
Dụi con mắt ướt như vừa chợp mơ
Sân ga kẻ đợi người chờ
Ta ôm một nỗi bơ vơ đứng nhìn
Đường Hoàng Hoa Thám lặng im
Hình như đường đã không nhìn ra ta
Bao năm lê gót phương xa
Nay về Đà Nẵng như là chiêm bao
Nguyễn Hoàng, Lệ Lợi chừ sao
Dấu chân ta để phương nào đường xưa ?
Lần từng bước nặng phố khuya
Một con dơi nhỏ vèo treo qua đầu
Thức ta ký ức đêm sâu
Trụ đèn hắt ngọn đèn sau nhắc chừng
Nhắc ta quán Diệp Hải Dung
Là nơi điểm hẹn nghe chừng khó quên
Những chiều buồn lén không tên
Giọt cà phê Hạ… nhỏ lên nỗi niềm
Ngã Năm chè đậu ngọt mềm
Ngọt dòng lưu bút, ngọt thèm môi trao
Chừ đây bước thấp bước cao
Giữa khuya hiu hắt lối nào dẫn đưa ?
Đưa ta về lại trường xưa
Gặp Thầy, gặp bạn cho vừa nhớ mong
Ta về cõng phận long đong
Hồn đang lặn ngụp trên dòng Hàn giang
Trong ta một cõi hoang tàn
Ta đang đi giữa hai hàng lệ ta

Tuyền Linh

KÊU TRỜI


+














KÊU TRỜI

Ốc ngon họ đã xơi rồi
Còn phần đổ vỏ thì tôi phải làm
Kêu trời rằng: "Thực con oan"
Trời rằng:
"Việc phúc đáng làm con ơi!
Khi nào con về chầu trời
Chọn tiên đẹp nhất Trời thời gả cho".

Vũ Kiệt
Liễu Giai - Hà Nội

THƠ HAIKU NHẬT BẢN (3) Tiếp theo



THƠ HAIKU NHẬT BẢN (3)
(Đôi lời của người dịch và thơ của Taneda SANTOKA)

ĐÔI LỜI CỦA NGƯỜI DỊCH
Haiku là thể thơ ngắn độc đáo của Nhật Bản. Mỗi bài chỉ 17 âm tiết, chia thành ba phần, người Nhật viết liền một dòng nhưng khi dịch ra tiếng nước ngoài được ngắt thành ba câu. Vì chưa quen, người đọc lần đầu có thể hơi ngỡ ngàng, tuy nhiên, đọc kỹ và suy ngẫm, ta sẽ thấy thơ Haiku thật tinh tế. Mỗi bài, thường là một bức tranh phong cảnh nhỏ, một tâm trạng thoáng qua nhưng gợi cho ta nhiều điều. Nội dung và triết lý thơ Haiku không nằm ở câu chữ mà ở sự tưởng tượng của chính người đọc.
Thơ Haiku thật kỳ lạ. Ngắn và giản dị. Nhiều khi không nói gì hoặc nói điều chẳng đâu vào đâu, thậm chí tưởng như “ngớ ngẩn”. Thế mà càng đọc, (trong trường hợp của tôi là càng dịch), ta cứ bị cuốn hút bởi sự “không có gì” và “ngớ ngẩn” đó. Tôi có cảm giác người Nhật viết Haiku không phải để truyền tải ý, mà hình ảnh, những hình ảnh chấm phá giản dị. Hình như cũng không có ý định nói điều gì to tát về triết lý hoặc tình cảm như ta thường thấy ở các dòng thơ khác. Có lẽ vì thế mà người đọc phải quen dần để cảm nhận và yêu. Trên thế giới có rất nhiều người yêu và bắt chước viết thơ Haiku Nhật Bản. Hầu như nước nào cũng có Hội những người yêu thích loại thơ này. Thậm chí còn có trường dạy cả cách viết Haiku.
Bản thân tôi cũng phải trải qua một thời gian khá dài mới làm quen được. Cụ thể hơn 30 năm kể từ ngày tôi lần đầu tò mò tìm hiểu thơ cổ Nhật Bản, và đã dịch một ít, dịch có thêm vần, mà chỉ loại thơ năm câu (tanca) trong tập Manyoshu đồ sộ. Giờ thì tôi yêu, và kết quả của tình yêu đó là tập Thơ Haiku Nhật Bản lần này.
Đầu tiên phải nhắc đến ba cây đại thụ của thơ Haiku Nhật. Đó là Matsuo BASHO, Yasa BUSON và Kobayashi ISSA. Mỗi vị tôi dịch khoảng trên dưới nghìn bài. Riêng Basho tôi có hai bản dịch khác nhau, từ hai nguồn khác nhau.
Ngoài ba đại thụ nói trên, trong tập này tôi dịch một lượng khá lớn thơ khất thực và thơ thiền của Taneda SANTOKA, một trong những nhà thơ Nhật hiện đại được ưa thích nhất hiện nay, cũng như một số nhà thơ Haiku tiêu biểu khác.
Dưới đấy xin trích giới thiệu với độc giả Văn Học Nước Ngoài một số trong 3500 bài Haiku của cuốn sách đang chờ xuất bản này.
Thái Bá Tân
___________________

Taneda SANTOKA
Taneda Santōka, tên khai sinh là Taneda Shōichi, sinh ngày 3 tháng Mười Hai năm 1882 và mất ngày 11 tháng Mười năm 1940. Năm 1902, ông vào học khoa văn trường Đại học tổng hợp Waseda, Tôkyo. Ở đây, ông bắt đầu nghiện rượu và bỏ học năm 1904. Năm 1911 ông bắt đầu dịch và in các tác phẩm của Ivan Turgenev và Guy de Maupassant trên tạp chí văn học Seinen với bút danh Santôka (Lửa trên đỉnh núi). Cũng năm ấy ông gia nhập nhóm các nhà thơ haiku nơi mình sống.
Cuộc đời Santôka đầy trắc trở với việc làm và gia đình, chủ yếu vì tật nghiện rượu của ông. Ông còn bị nhà chức trách bắt giam một thời gian vì nghi là cộng sản. Năm 1924, đang lúc say bí tỉ, ông nhảy vào tàu hỏa, chắc với ý định tự tử, nhưng người lái tàu kịp dừng trong gang tấc. Sau đó ông được người ta đưa vào chùa Hôon-ji, nơi nhà sư trụ rì cho gia nhập Hội Thiền Huynh Đệ.
Năm 1926, ông lên đường thực hiện chuyến đi đầu tiên trong nhiều chuyến hành hương khất thực của mình kéo dài tới ba năm. Ông mặc áo cà-sa, độ mũ tre rộng vành che nắng và tay cầm chiếc bát xin ăn dọc đường. Đó là một phần quan trọng trong cách tu hành của các nhà sư Nhật Bản thời ấy. Qua các bài haiku và những đoạn nhật ký ông viết lúc đi khất thực, người đọc biết ông đã phải trải qua rất nhiều khó khăn, vất vả, đôi khi cả sự khinh bỉ của người đời. Năm 1936, ông bắt đầu chuyến đi theo lộ trình của nhà thơ haiku vĩ đại Bashô (1644 – 1694) và chỉ quay về sau tám tháng một mình lang thang xin ăn khắp nước. Cuối cùng ông vào sống trong một ngôi chùa nhỏ gần thành phố Matsuyama và qua đời khi đang ngủ, ngày 10 tháng 10 năm 1940, để lại bảy tập thơ haiku nổi tiếng được viết theo thể tự do không niêm luật.
1
Trời không mây
Nhìn qua cốc rượu mạnh
Trời thật sâu.
3
Vợ chồng cãi nhau
Đêm
Con nhện treo ngược.
4
Đường phố thật yên tĩnh
Một hố lớn
Đào trên bề mặt.
7
Mặt trời chói chang
Chân bước đi
Miệng xin ăn..
9
Cơ thể này
Còn sống
Tôi gãi nó.
10
Phản chiếu
Dưới nước
Một người đi trên đường.
12
Đường chạy thẳng
Về phía trước
Tôi bước một mình.
13
Để con chuồn chuồn
Đậu lên mũ
Tôi đi tiếp.
14
Tôi tiếp tục đi
Hoa huệ
Tiếp tục nở.
15
Tôi trượt
Ngã sầy chân
Núi vẫn lặng im.
16
Chân sầy trợt
Con chuồn chuồn
Đậu lên.
23
Chiếc áo nhà sư của tôi
Rách thế này đây...
Những hạt cỏ.
24
Say mèm
Tôi ngủ
Cùng những con dế.
25
Ấm. Ai đó
Đắp chiếc chiếu
Lên người tôi.
32
Trong phòng tắm
Đàn ông và đàn bà cãi nhau
Về các bức ngăn.
40
Không còn nhà nào nữa
Để gõ cửa xin ăn...
Mây trên núi.
43
Trời không mưa
Cũng chẳng sao...
Nhưng trời mưa.
44
Nền đất lạnh, rất lạnh
Kệ
Tôi cứ giao thân tôi cho nó.
45
Tâm trạng ủ ê...
Thì gột cái ủ ê ấy
Bằng nước tắm.
52
Nấu một mình
Ăn một mình
Bát canh Năm Mới.
57
Mình tôi
Nhóm lửa
Cho mình tôi.
58
Trời mưa...
Người đàn bà trên gác
Huýt sáo một mình.
59
Mây lạnh
Không hiểu sao
Cứ bay đi vội vã.
60
Đi giữa trời mưa phùn...
Phía sau
Trông mình thế nào nhỉ?
62
Mưa đá
Rơi gần đầy chiếc bát
Tôi dùng để xin ăn.
70
Lủi thủi đi
Giữa đường núi
Lủi thủi nói chuyện một mình.
75
Nước in bóng cây
Và bóng mây...
Con mèo chết trôi qua.
76
Đâu đó
Trong đầu tôi
Con quạ đang kêu.
84
Cả kiến
Cũng đi bộ
Suốt ngày trên núi.
100
Suy cho cùng
Một mình là tốt nhất...
Cỏ dại.
102
Một ngày trời ấm
Hơn thế
Trên tay có cái ăn.
114
Chẳng còn gì nữa
Ngoài cái chết...
Núi lờ mờ trong sương.
122
Không muốn chết
Không muốn sống...
Gió thổi trên đầu.
133
Một cây ngã
Chắn đường...
Thì ngồi lên nó.
134
Cây măng
Đang dần trở thành cây tre...
Thế là tử tế.
143
Cú mèo theo cách cú mèo
Tôi theo cách tôi
Không ngủ được.
Thái Bá Tân
Dịch từ tiếng Anh


THƠ HAIKU NHẬT BẢN (2) Tiếp theo


THƠ HAIKU NHẬT BẢN (2) Tiếp theo
(Đôi lời của người dịch và thơ của Yosa BUSON)

ĐÔI LỜI CỦA NGƯỜI DỊCH
Haiku là thể thơ ngắn độc đáo của Nhật Bản. Mỗi bài chỉ 17 âm tiết, chia thành ba phần, người Nhật viết liền một dòng nhưng khi dịch ra tiếng nước ngoài được ngắt thành ba câu. Vì chưa quen, người đọc lần đầu có thể hơi ngỡ ngàng, tuy nhiên, đọc kỹ và suy ngẫm, ta sẽ thấy thơ Haiku thật tinh tế. Mỗi bài, thường là một bức tranh phong cảnh nhỏ, một tâm trạng thoáng qua nhưng gợi cho ta nhiều điều. Nội dung và triết lý thơ Haiku không nằm ở câu chữ mà ở sự tưởng tượng của chính người đọc.
Thơ Haiku thật kỳ lạ. Ngắn và giản dị. Nhiều khi không nói gì hoặc nói điều chẳng đâu vào đâu, thậm chí tưởng như “ngớ ngẩn”. Thế mà càng đọc, (trong trường hợp của tôi là càng dịch), ta cứ bị cuốn hút bởi sự “không có gì” và “ngớ ngẩn” đó. Tôi có cảm giác người Nhật viết Haiku không phải để truyền tải ý, mà hình ảnh, những hình ảnh chấm phá giản dị. Hình như cũng không có ý định nói điều gì to tát về triết lý hoặc tình cảm như ta thường thấy ở các dòng thơ khác. Có lẽ vì thế mà người đọc phải quen dần để cảm nhận và yêu. Trên thế giới có rất nhiều người yêu và bắt chước viết thơ Haiku Nhật Bản. Hầu như nước nào cũng có Hội những người yêu thích loại thơ này. Thậm chí còn có trường dạy cả cách viết Haiku.
Bản thân tôi cũng phải trải qua một thời gian khá dài mới làm quen được. Cụ thể hơn 30 năm kể từ ngày tôi lần đầu tò mò tìm hiểu thơ cổ Nhật Bản, và đã dịch một ít, dịch có thêm vần, mà chỉ loại thơ năm câu (tanca) trong tập Manyoshu đồ sộ. Giờ thì tôi yêu, và kết quả của tình yêu đó là tập Thơ Haiku Nhật Bản lần này.
Đầu tiên phải nhắc đến ba cây đại thụ của thơ Haiku Nhật. Đó là Matsuo BASHO, Yasa BUSON và Kobayashi ISSA. Mỗi vị tôi dịch khoảng trên dưới nghìn bài. Riêng Basho tôi có hai bản dịch khác nhau, từ hai nguồn khác nhau.
Ngoài ba đại thụ nói trên, trong tập này tôi dịch một lượng khá lớn thơ khất thực và thơ thiền của Taneda SANTOKA, một trong những nhà thơ Nhật hiện đại được ưa thích nhất hiện nay, cũng như một số nhà thơ Haiku tiêu biểu khác.
Dưới đấy xin trích giới thiệu với độc giả Văn Học Nước Ngoài một số trong 3500 bài Haiku của cuốn sách đang chờ xuất bản này.
Thái Bá Tân
___________________


Yosa BUSON
Yosa Buson tên thật là Taniguchi Buson, sinh năm 1716 ở làng Kema, tỉnh Settsu, ngoại ô thành Osaka, mất ngày 25 tháng 12 năm 1784, là thi sĩ và họa sĩ người Nhật trong thời kỳ Edo. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, năm 1737, ông đến thành Edo học vẽ và làm thơ theo Basho . Năm 1772, Buson ra mắt tập thơ đầu tiên . Người ta biết đến ông chủ yếu như một họa sĩ, và do là họa sĩ, thơ ông nhiều hình ảnh với những nét chấm phá độc đáo. Có thể ví ông như Vương Duy của Tung Quốc đời Đường. Cùng Matsuo Bashō và Kobayashi Issa, Buson được xem là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của Nhật Bản thời kỳ Edo
1
Bài thơ đầu năm viết xong...
Nhà thơ Haiku
Tự hài lòng.
2
Ngày dài hơn...
Đâu đó phía cầu
Con gà lôi vỗ cánh.
3
Ngày cứ dài thêm
Bâng khuâng nhớ lại
Những ngày xa xưa.
4
Chầm chậm, ngày tắt dần...
Để lại tiếng vọng
Trong góc nhỏ Kyôtô này.
5
Thầy tế ngủ gật...
Ống tay áo trăng trắng
Giữa hoàng hôn mùa xuân.
6
Trong căn lều nhỏ của tôi
Không cúng Phật nến và hoa...
Giờ hoàng hôn, tôi thấy buồn và sợ.
7
Ngủ trưa một chốc
Tỉnh dậy
Đã xế chiều.
8
Cho ai
Chiếc gối kia trên sàn
Giữa hoàng hôn mùa xuân?
9
Cánh cửa lớn ngoài cổng
Trầm tư
Giữa hoàng hôn mùa xuân.
10
Trăng mờ khói...
Ai đó
Đang đứng giữa vườn lê.
11
Cây lê nở hoa
Sang sáng dưới ánh trăng...
Một người đàn bà đọc thư.
12
Mưa xuân...
Gần như tối hẳn
Nhưng ngày chưa tắt.
13
Con sò nhỏ trên bãi biển...
Mưa xuân
Đủ để làm ướt nó.
14
Mưa xuân rơi...
Quả bóng trên mái nhà
Ướt như áo đứa trẻ.
15
Chọn lúc yên tĩnh
Và vắng người
Cây mẫu đơn nở hoa.
16
Cánh hoa mẫu đơn rụng
Chồng lên nhau...
Hai ba cánh một chỗ.
17
Mưa tháng Năm...
Các ngôi nhà nhìn ra sông...
Chính xác là hai.
18
Qua cầu...
Tay xách dép
Thật dễ chịu.
22
Con chim cu
Bay chéo
Qua kinh thành Hêian.
23
Giếng cổ...
Vang lên trong đêm
Tiếng con cá đớp muỗi.
27
Tự nhiên buồn
Khi leo lên đồi...
Hồng dại nở hoa.
28
Đêm hè quá ngắn...
Mảnh trăng gầy
Soi bãi nước nông bên sông.
29
Phòng người vợ đã chết...
Tôi lặng người khi vô tình
Dẫm lên chiếc lược của nàng.
30
Hơn cả năm ngoái
Giờ tôi thấy cô đơn..
Hoàng hôn mùa thu.
31
Được ở một mình
Giữa chiều hoang hôn
Cũng là hạnh phúc.
32
Cao trên trời
Trăng sáng đi qua
Con phố nghèo nàn này.
33
Tung dây câu
Gió thu thổi bay...
Cái cảm giác buồn buồn khó tả.
36
Mùa đông, nửa đêm...
Ai đó cưa gỗ
Tiếng cưa hình như cùn.
37
Chiếc dép cỏ
Lềnh bềnh dưới ao tù...
Tuyết nhẹ rơi.
42
Ngỗng bay thành hàng...
Trăng chấm dấu tròn
Bên lề bầu trời.
44
Gió thu, bên bờ biển...
Cá nhỏ phơi thành dây
Từ mái hiên.
46
Ừ, có lẽ
Mùa thu đã đến...
Tôi hắt hơi.
52
Buổi chiều, gió...
Nước
Vỗ vào chân con diệc.
53
Cao trên trời
Ngỗng bay như xếp chữ...
Trăng đóng dấu bên cạnh.
55
Qua đồng hoang...
Tôi cứ nghĩ
Như có ai đang đi sau tôi.
59
Rạng sáng...
Không bị chim cốc bắt
Con cá bơi trong vũng nước nông.
60
Trăng ngả về Tây
Bóng hoa
Đổ về Đông.
63
Cơn gió lạnh
Nhuộm trắng
Bầy chim bên hồ nước.
68
Mùa đông, lạnh...
Đắp chăn lên đầu
Hay chân?
69
Bị hạt mưa rơi trúng
Con sên
Vội khép vỏ.
70
Trong ao tù
Con ếch già thêm
Mỗi lần lá rụng.
71
Ngừng ngủ, ngừng bay
Con bướm nhỏ
Đậu lên chuông đại nhà chùa.
74
Cỏ dính sương mù
Nước lặng...
Tối rồi.
75
Dưới mưa mùa hè
Lối đi nhỏ
Mờ dần.
77
Trời mát...
Âm thanh tiếng chuông
Thong thả rời khỏi chuông.
78
Những lá cỏ non...
Tiếng thác nước
Nghe vừa xa vừa gần.
79
Con bướm trên tay tôi...
Nhẹ như không khí
Như không có gì.
80
Khi hoa anh đào rụng hết
Ngôi chùa trơ
Sau những cành lá trụi.
82
Thắp nến
Bằng lửa từ cây nến khác...
Đêm xuân.
88
Trăng trắng
Mỗi giọt sương
Trên ngọn gai.
97
Gió thổi từ phía Tây
Lá rụng
Dạt sang phía Đông.




Thứ Hai, 22 tháng 2, 2016

THƠ HAIKU NHẬT BẢN (1)


THƠ HAIKU NHẬT BẢN (1)
(Đôi lời của người dịch và thơ của Matsuo BASHO)

ĐÔI LỜI CỦA NGƯỜI DỊCH
Haiku là thể thơ ngắn độc đáo của Nhật Bản. Mỗi bài chỉ 17 âm tiết, chia thành ba phần, người Nhật viết liền một dòng nhưng khi dịch ra tiếng nước ngoài được ngắt thành ba câu. Vì chưa quen, người đọc lần đầu có thể hơi ngỡ ngàng, tuy nhiên, đọc kỹ và suy ngẫm, ta sẽ thấy thơ Haiku thật tinh tế. Mỗi bài, thường là một bức tranh phong cảnh nhỏ, một tâm trạng thoáng qua nhưng gợi cho ta nhiều điều. Nội dung và triết lý thơ Haiku không nằm ở câu chữ mà ở sự tưởng tượng của chính người đọc.
Thơ Haiku thật kỳ lạ. Ngắn và giản dị. Nhiều khi không nói gì hoặc nói điều chẳng đâu vào đâu, thậm chí tưởng như “ngớ ngẩn”. Thế mà càng đọc, (trong trường hợp của tôi là càng dịch), ta cứ bị cuốn hút bởi sự “không có gì” và “ngớ ngẩn” đó. Tôi có cảm giác người Nhật viết Haiku không phải để truyền tải ý, mà hình ảnh, những hình ảnh chấm phá giản dị. Hình như cũng không có ý định nói điều gì to tát về triết lý hoặc tình cảm như ta thường thấy ở các dòng thơ khác. Có lẽ vì thế mà người đọc phải quen dần để cảm nhận và yêu. Trên thế giới có rất nhiều người yêu và bắt chước viết thơ Haiku Nhật Bản. Hầu như nước nào cũng có Hội những người yêu thích loại thơ này. Thậm chí còn có trường dạy cả cách viết Haiku.
Bản thân tôi cũng phải trải qua một thời gian khá dài mới làm quen được. Cụ thể hơn 30 năm kể từ ngày tôi lần đầu tò mò tìm hiểu thơ cổ Nhật Bản, và đã dịch một ít, dịch có thêm vần, mà chỉ loại thơ năm câu (tanca) trong tập Manyoshu đồ sộ. Giờ thì tôi yêu, và kết quả của tình yêu đó là tập Thơ Haiku Nhật Bản lần này.
Đầu tiên phải nhắc đến ba cây đại thụ của thơ Haiku Nhật. Đó là Matsuo BASHO, Yasa BUSON và Kobayashi ISSA. Mỗi vị tôi dịch khoảng trên dưới nghìn bài. Riêng Basho tôi có hai bản dịch khác nhau, từ hai nguồn khác nhau.
Ngoài ba đại thụ nói trên, trong tập này tôi dịch một lượng khá lớn thơ khất thực và thơ thiền của Taneda SANTOKA, một trong những nhà thơ Nhật hiện đại được ưa thích nhất hiện nay, cũng như một số nhà thơ Haiku tiêu biểu khác.
Dưới đấy xin trích giới thiệu với độc giả Văn Học Nước Ngoài một số trong 3500 bài Haiku của cuốn sách đang chờ xuất bản này.
Thái Bá Tân
___________________
Matsuo BASHO
Matsuo Bashō (1644-1694), nhà thơ thiền lỗi lạc thời Edo, tên thật là Matsuo Munefusa, là con trai út thứ bảy của một samurai cấp thấp phục vụ cho lãnh chúa thành Ueno, một tòa thành nằm giữa con đường đi từ Kyoto đến Ise. Mùa xuân năm 1679 Matsuo Bashō được phong tước hiệu Sosho (bậc thầy dạy thơ Haikai). Năm sau ông dời đến một túp lều bên sông Sumida. Cũng trong những năm này, ông tu tập thiền đạo với một thiền sư tại một ngôi chùa địa phương.
Năm 1682 Bashō am bị cháy, ông dời về Koshu và từ đó lấy bút hiệu là Bashō (Ba Tiêu). Năm sau ông trở về Edo và dựng lại "ba tiêu am". Bắt đầu từ đây, định mệnh thơ haikai rơi vào tay của Bashō: ông đã sáng tạo ra một phong cách mới là Shōfu (Tiêu Phong, ẩn ý về đời người nghệ sĩ như những tàu lá ba tiêu bị xé tan trong gió những đêm giông bão), một phong cách dung hợp giữa sự trào lộng đời thường của haikai đương thời với yếu tố tao nhã tâm linh của thể thơ renga (liên ca) cổ điển. Ông cũng dần hoàn thiện một loại thơ ngắn 17 âm tiết trong 3 câu 5+7+5 từ những câu đầu (hokku) của thể thơ renga và thể thơ cực ngắn ấy về sau được mọi người biết đến với cái tên đã trở thành bất hủ - haiku.
Trong đời mình Basho đã thực hiện nhiều chuyến hành hương dài khắp nước Nhật và đến năm 1693, ông quyết định đóng cửa sống trong cô tịch, không tiếp khách. Người ta nói cánh cửa nhà ông chỉ mở ra khi có một biến cố lớn, như hoa triêu nhan nở bên hàng dậu chẳng hạn. Trong thời gian này, cuộc đời và thơ ca của ông hướng đến một lý tưởng gọi là karumi, tức sự nhẹ nhàng thanh thoát tìm thấy ngay giữa cuộc đời ô trọc.(Theo Wikipedia).
1
Con quạ
Ngồi trên cành cây khô
Chiều thu.
2
Người thợ đập đá
Ngồi nghỉ bên dàn hoa bìm bìm
Cuộc đời này thật buồn.
3
Con ếch
Nhảy xuống ao tù
Tiếng nước té.
4
Làng này, vùng núi này
Nơi không ai lui tới
Sẽ rất buồn nếu không buồn.
6
Nước thủy triều nông
Chân sếu ẩm ướt
Vì hơi lạnh từ biển.
9
Đã mùa thu
Có lý do để già
Đám mây và con chim.
12
Trăng
Một nhà sư
Mang trăng đi qua bãi cát.
14
Biển xanh
Sóng vỡ có mùi rượu gạo
Trăng sáng đêm nay.
15
Trong thảm hoa màu trắng
Đêm
Chuyển thành ngày.
16
Người ta buồn vì vượn khóc
Trẻ khóc thì sao?
Gió thu.
19
Không hóa thành bướm
Mùa thu
Đang chín dần, thành mồi cho sâu.
20
Sắp thu
Càng muốn ngồi
Trong căn phòng trải bốn chiếu.
22
Thủy triều dâng
Con sếu bước trên đôi chân ngắn
Nước quá gối.
23
Đêm trăng lặng yên
Có thể nghe trong tán lá
Tiếng sâu ăn hạt dẻ.
26
Khóm liễu ngủ mơ màng
Tôi cứ nghĩ họa mi
Là linh hồn của nó.
28
Những cánh hoa dưa
Rơi thành tiếng xuống đất
Hoa lãng quên?
37
Uống trà sáng
Nhà sư
Lặng im như hoa cúc.
39
Đêm thu, mưa
Nước chảy thành dòng trên lá chuối
Tôi ngồi nghe tiếng đêm.
41
Trong chuồng bò
Muỗi kêu o o
Làm đen thêm cái nóng.
42
Trên đường này
Một mình không bạn
Đêm thu.
45
Hoa cúc thơm, trong vườn
Chiếc dép mòn
Trơ đế vẹt.
46
Lơ đãng
Nghe lời đưa tiễn
Nhớ mùa thu ở Kisô
53
Im lặng mênh mông
Càng im lặng bởi tiếng dế
Tắt dần phía đền Núi Đá.
54
Trong mơ, gió xuân thổi
Cánh hoa bay tả tơi
Tỉnh dậy còn nghe tiếng rơi.
58
Chiếc lưỡi lửa yếu ớt
Dầu lắng tận đáy đèn
Buồn sao!
61
Hoa tàn
Hạt rơi xuống đất
Như những giọt nước mắt.
62
Đông hay Tây
Đều đau khổ đời này
Dửng dưng gió thổi.
63
Trung Thu
Dạo nhiều vòng quanh hồ
Toàn đêm đen quanh hồ.
66
Đêm, chiếc bình vỡ
Nước trong bình đóng băng
Chợt tỉnh.
67
Trăng, hay trời đã sáng?
Sống lười, theo ý mình
Thế là đã hết năm.
71
Chiếc tổ cò ngả nghiêng trên cây
Phía dưới, nơi không có gió
Anh đào nở hoa thản nhiên.
72
Ngôi nhà không có đàn bà
Cả bông hoa trắng trên bờ dậu
Cũng làm tôi ớn lạnh.
74
Có phải gió
Thổi mạnh làm gãy cành thông?
Tiếng nước té thật mát.
75
Dòng suối trong
Con cua nhỏ
Theo chân tôi bò lên.
76
Đời quả xấu xa
Nhưng chừng nào có anh ở đời
Tôi còn bị đời lôi cuốn.
77
Hồn bay theo trăng
Sáng ngời trên núi
Để xác tôi trong bóng tối.
78
Đừng xem đời là quán trọ
Khi anh, như tôi
Muốn được ngủ đêm nay trong quán trọ.
80
Bỏ phí cuộc đời
Là người
Không bỏ phí cái gì.
82
Chỉ tiếng nước làm bạn
Căn lều cô đơn
Như chỗ lặng giữa hai đợt sóng.
85
Trăng tròn
Bảy bài hát dài của người đàn bà
Hướng về phía biển.
94
Cuối xuân, chim buồn
Cá khóc
Mắt đầy lệ.
98
Yên tĩnh
Tiếng dế kêu
Thấm từng kẽ đá.
102
Trên chuông đại nhà chùa
Con bướm đêm
Co mình, ngủ.
104
Trăng
Chiếu xiên rặng tre
Chim cu kêu.
107
Chuông chùa tắt
Hương hoa đêm
Làm chuông ngân thêm.
113
Tôi đi
Anh ở lại
Hai mùa thu.
123
Dẫu còn yếu gầy
Vô cớ
Bụi cúc đâm bông.
127
Ốm
Ngồi nhai tảo khô
Cát giữa hai hàm răng.
135
Mọi người ngày một già
Đám thanh niên Êbisu
Còn làm họ già thêm.
153
Mặt trời ngày đông
Bóng tôi đóng băng
Trên lưng ngựa.